Nếu Sampras không vì vợ chán tennis
 	
Một phần vì họ thuộc về hai thế hệ nối tiếp nhau, từng có một trận đối  đầu trực tiếp chứ không bị chia tách bởi không gian hay quãng thời tính  bằng thập kỷ.
 	
Một phần quan trọng nhất là nếu bóng đá là môn chơi tập thể để nói về  Maradona phải nói tới Ruggeri, Burruchaga, Valdano, Passarella... hay  nhắc đến Pele thì phải đếm cả Jairzinho, Tostao, Alberto, Rivelino...,  còn tennis là cá nhân đối kháng, mà ngay cả việc giao tiếp với HLV ở  trên sân đến nay vẫn là một việc cấm kỵ.
 	
Và một phần khác nữa là những thành tích quan trọng nhất để tạo dựng  nên hai huyền thoại thì Federer đều vượt trội so với người mà anh coi là  thần tượng thuở niên thiếu và hơn anh đúng 10 tuổi. Nếu như Sampras vô  địch 14 Grand Slam thì Federer giờ đã có 17 danh hiệu, mà trong số đó có  Roland Garros - nơi huyền thoại nước Mỹ chưa bao giờ lọt vào tới trận  chung kết.
 	
Ngay cả thành trì tưởng như sẽ là pháo đài không bao giờ đổ của Sampras  là 286 tuần liên tiếp ngự trị ở ngôi số 1 TG cũng đã trở thành quá khứ  khi Federer đang trải qua tuần thứ 287 ở vị trí người dẫn đầu bảng ATP  trong đó có giai đoạn 237 tuần liên tục từ năm 2004 tới 2008 cũng là một  kỷ lục khác.
 
    
        
            |  | 
        
            | Cuối cùng Federer cũng vượt qua thần tượng Sampras | 
    
Nhưng dẫu vậy, có những thứ đã và sẽ là mãi của riêng Sampras như lối  đánh lên lưới volley ngay sau khi giao bóng đến nay chưa ai có thể sánh  nổi, nhất là khi công chúng xem tennis đôi khi vẫn đạt tới khoái cảm khi  chỉ cần xem những đường bóng vị nghệ thuật mà chưa cần phải nhìn thần  tượng của mình nâng cao những chiếc cúp.
 	
Bởi thế mà cuộc chia tay của Sampras với tennis đỉnh cao tạo ra biết  bao hụt hẫng pha lẫn băn khoăn, thèm thuồng pha lẫn tiếc nuối. Bởi không  ai nghĩ rằng ngày Sampras đánh bại Agassi trong trận chung kết US Open  2002 lại là trận đấu cuối cùng của anh trong sự nghiệp huy hoàng.
 	
Khi Sampras trở lại thi đấu biểu diễn, dù bất cứ đâu, sân luôn đầy áp  khán giả giống như lúc anh còn chưa tuyên bố treo vợt. Khi Sampras thi  đấu trong hệ thống những nhà vô địch kỳ cựu trải dài trên khắp nước Mỹ  2011, anh lôi cuốn mọi người bằng lối đánh hoa mỹ và cho thấy mình vẫn  là biểu tượng của lối chơi giao bóng lên lưới.
 	
Thực tế ấy đặt ra một giả thuyết, nếu như Sampras không dừng lại sau  khi anh vô địch US Open 2002, liệu anh có thể giành được thêm bao nhiêu  Grand Slam nữa, và liệu có thể trở lại ngôi vị số 1 TG và ngồi trên ngai  vàng thêm bao nhiêu tuần nữa sẽ ngồi ở ngôi vị số 1 thế giới thêm bao  nhiêu tuần nữa? Qua số liệu của ATP lưu trữ, chúng ta biết được rằng khi  anh treo vợt vào tháng 9-2002, vị trí ATP là 14, còn lần cuối anh đứng ở  vị trí số 1 TG là tháng 11-2000.
 	
Trong cuốn tự truyện "Bộ não nhà vô địch", anh kể: "Hai  tháng sau đó (US Open 2002), ngày nào tôi cũng tỉnh dậy với nụ cười trên  môi. Trong ba tháng, tôi đã đi từ tận cùng của đớn đau - dù cho nó cũng  đáng để tôi cảm thấy tự hào - tới bến bờ của mãn nguyện. Nhưng thực  tình ngay lúc ấy tôi không suy nghĩ nhiều về cảm giác này, nhưng nó là  những nét phác họa để mọi người mường tượng ra đoạn kết của sự nghiệp  của tôi. Thực tế là những tuần tiếp theo nữa, tôi chẳng thèm băn khoăn  đâu sẽ là điểm tiếp theo trong hành trình của mình. Tôi chưa bao giờ  nghĩ thế là sự nghiệp cầm vợt của mình khép lại ở đó. Phong độ vẫn tuyệt  vời, tôi cảm nhận rất rõ như thế. Tôi chẳng mảy may nghi ngờ về khả  năng cạnh tranh đỉnh cao. Tôi không hề nghĩ là mình đã kiệt lực. Nhưng  rồi thời gian trôi qua, tôi hiểu rằng mình chẳng còn khát vọng thi đấu  nữa, và quyết định xóa hết lịch thi đấu ra khỏi kế hoạch".
 	
Sự thực là việc thiếu khát vọng đã lôi Sampras ra khỏi cuộc chơi mà  đáng ra anh còn có thể chinh phục được những đỉnh cao khác. Ở những năm  đầu tiên của thế kỷ 21, khi Sampras đi tìm danh hiệu thứ 14 thực ra chỉ  là để tự vượt qua chính bản thân anh, chứ người đứng thứ hai trong bảng  vàng tổng số các danh hiệu Grand Slam là Roy Emerson (Australia) với 12  danh hiệu lúc bấy giờ đã trở thành một ông cụ. Agassi, người được coi là  đối trọng lớn nhất tới năm 2012 cũng chỉ giành được 7 Grand Slam (2003  giành cái cuối cùng tại Australian Open).
 
 	Paul Annacone, người từng dẫn dắt Sampras và nay là thày của Federer  nói rằng vấn đề của Sampras chỉ là động lực thi đấu. Federer đến tận năm  2010 vẫn còn khẳng định là nếu ngay giờ đây Sampras cầm vợt, anh vẫn có  thể thắng được nhiều tay vợt đỉnh cao đương đại. Một sự thực nữa là BTC  Wimbledon 2007 đã điện thoại cho Sampras để nói là họ sẵn sàng trao cho  anh một suất đặc cách nếu như anh vẫn còn muốn thi đấu. 
"Nhưng tôi  đã lịch sự từ chối. Tôi tự tin là mình vẫn có thể thắng vài vòng, nhưng  thực lòng tôi không muốn đấu với những đối thủ xa lạ, những người mà tôi  chưa từng đối đầu bao giờ" (Tự truyện Bộ não nhà vô địch).
    
        
            |  | 
        
            | Sampras có thể giành thêm Grand Slam nếu có thêm động lực | 
    
Cũng trong cuốn tự truyện nói trên, Sampras rải rác trong nhiều chương  hồi thú nhận rằng hai năm khủng hoảng không danh hiệu Grand Slam (cho  tới khi anh vô địch US Open 2002) là quãng thời gian anh mê vợ - cô hoa  hậu teen của Mỹ Bridgette - hơn bóng. Chỉ riêng việc đêm trước ngày thi  đấu vòng 2 Wimbledon 2002 anh phải ngủ riêng (do chiếc giường quá nhỏ  cho đôi vợ chồng son) trong căn nhà anh thuê ở London cũng tác động ghê  gớm tới Sampras và ngày hôm đó, anh trải qua cú sốc lớn nhất trong sự  nghiệp: Bị knock out ngay từ vòng hai ở giải đấu anh đã bảy lần vô địch.
Một sự băn khoăn khác, là thời của Sampras quy tụ những ngôi sao pha  trộn giữa hai thế hệ, một là kỳ cựu như Agassi, Costa, Moya, Enqvist...  và một thế hệ những tay vợt trẻ mới nổi cùng trường phái cuối sân đầy  chất thể lực như Hewitt, Nalbadian và cả những ngôi sao trẻ chơi toàn  sân rất hay như Safin, Haas, Roddick... Những tên tuổi ấy đủ để tin rằng  đây là một trong những giai đoạn khốc liệt nhất của kỷ nguyên Mở, và  khái niệm một vài cá nhân thống trị là hoàn toàn xa vời.
 	
Dù gì thì Sampras cũng là quá khứ
 	
Nhưng Federer chứng tỏ được với Sampras không chỉ trong trận đấu duy  nhất của họ bằng cách thắng 3-2 ở vòng 4 Wimbledon 2001. Federer đến với  trận đấu ấy và đi vào lịch sử tennis bằng lối chơi giao bóng lên lưới,  để rồi hôm nay anh là tay vợt chơi khắp mặt sân, là một chuyên gia cự  phách ở cuối sân nhưng khi cần vẫn volley như một nghệ nhân.
 	
Đó chính là sự hoàn thiện độc nhất vô nhị trong lịch sử tennis bởi sự  chuyển đổi giữa các trường phái trong tennis đòi hỏi một sự chuyển dịch  tổng hòa từ cú quả cho tới chiến thuật mà nhiều khi kết cục của nó  thường là thất bại.
 
    
        
            |  | 
        
            | Federer mới là hiện thực | 
    
Và cách tốt nhất như chúng ta vẫn hay làm trong thời đại của thống kê  và những con số. Federer đến nay đã giành được 75 danh hiệu khác nhau,  trong đó ngoài 17 Grand Slam còn có 20 Masters 1000, còn Sampras dừng  lại ở con số 64 danh hiệu sau hơn chục năm thi đấu chuyên nghiệp.
 	
Federer là người xuất sắc thứ hai trong lịch sử xét trên thành tích đối  đầu với top 10, với tỉ lệ 156 trận thắng và 76 trận thua (0,672%), còn  Sampras có 124 trận thắng và 74 trận thua (0,636%), đứng thứ sáu.
 	
Federer (và các fan của anh) chỉ bị ám ảnh bởi một điều duy nhất là đã  thua đối thủ lớn nhất, Nadal, quá nhiều 10-18, trong khi Sampras đối đầu  với bất cứ kỳ phùng địch thủ nào anh cũng thắng nhiều hơn bại. Với  Agassi là 10-6, với Courier là 10-2, với Becker là 9-4. Với Rafter là  7-4. Với Ivanisevic là 9-3. Với Chang là 9-2...
 	
Không hiểu, với ngần ấy dữ liệu đã là đủ để đưa ra một kết luận, rằng  so sánh và vượt qua Federer để trở thành huyền thoại của những huyền  thoại, số 1 của những số 1 chắc chỉ có ai đó trong tương lai với quãng  thời gian tính bằng nhiều đời người?
 	
Sampras nói về việc Federer phá kỷ lục 286 tuần số 1: "Trong thể  thao, điều khó khăn nhất là duy trì trên đỉnh cao. Federer đã làm được  điều đó với khả năng vĩ đại và sự bền bỉ phi thường".